PHỐ ĐÀO DUY TỪ

Phố Đào Duy Từ dài 290m, nay thuộc phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, cách Hồ Gươm chừng 400m về hướng bắc. Phố đi từ cửa ô Quan Chưởng (nơi giáp các phố Thanh Hà, Hàng Chiếu) đến ngã ba Lương Ngọc Quyến; đoạn giữa cắt ngang các ngã tư Nguyễn Siêu – Chợ Gạo và Hàng Buồm – Mã Mây.

Phố mang tên Đào Duy Từ (1572-1634), một danh tướng Việt Nam sống vào thế kỷ 17 nhưng còn để lại di tích và truyền thuyết Luỹ Thầy cho đến ngày nay. Hồi trẻ Đào Duy Từ bị mang tiếng con nhà phường chèo nên không tiến thân được với Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Năm 1627, ông trốn vào xứ Thuận Quảng ở Đàng Trong, cùng năm được Trần Đức Hòa tiến cử lên chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Chúa Phúc Nguyên gọi là thầy để tỏ lòng kính trọng.

Năm 1630, Đào Duy Từ thiết kế và chỉ đạo xây dựng hệ thống các lũy Trường Dục, Nhật Lệ, Trường Sa (nay thuộc thành phố Đồng Hới và huyện Quảng Ninh). Ông dâng các mưu lạ, lập nhiều chiến công và cai trị giỏi, được cả người đương thời và đời sau ca ngợi.

Thời thuộc Pháp, nơi đây gồm hai phố có tên khác nhau. Đoạn đầu từ cửa ô Quan Chưởng đến phố Hàng Buồm mang tên Rue de l’Ancien Canal, tức “phố Kênh cũ”. Đoạn này thuộc đất cũ thôn Hương Bài (đổi thành Hương Nghĩa khi Hương Bài sáp nhập với thôn Kiên Nghĩa), dấu tích là đền Hương Nghĩa thờ Cao Tứ (em Cao Lỗ – người chế nỏ thần giúp An Dương Vương) và vợ là Phượng Minh công chúa, nay chủ yếu thờ Mẫu.

Đoạn từ phố Hàng Buồm đến phố Lương Ngọc Quyến trong thời thuộc Pháp đã mang tên Đào Duy Từ. Nơi đây thuộc đất thôn cũ Ngư Võng, tổng Hữu Túc sau gọi là tổng Đông Thọ, phủ Hoài Đức. Ngày nay đứng tại góc ngã ba Lương Ngọc Quyến ta có thể nhìn thấy một phần phía sau của đình Hương Tượng (hiện có hai cổng đình ở số 10 Lương Ngọc Quyến và 64 Mã Mây).

Trước kia dân thương lái mở các cửa hàng lương thực rải rác từ phố Trần Nhật Duật xuống đến Cột Đồng Hồ và Chợ Gạo, nhiều nhất là ở “phố Kênh Xưa”. Tại đây những hiệu buôn lớn của Hoa kiều và của người Việt Nam từng có lúc tập trung đến hơn chục cửa hàng gạo, ngoài ra còn bán ngô, khoai và bột mỳ. Đặc biệt ở cả hai đoạn trên và dưới phố Đào Duy Từ đều có xây liên tiếp sát nhau các “nhà chàn”, tức là những kho rộng lớn chứa hàng của người Tàu.

Thời Pháp thuộc, tuy nằm sát khu vực thương mại giầu có nhưng những người Hoa ở phố Đào Duy Từ phần đông là nghèo khổ, phải làm công cho các cửa hiệu Tầu hoặc làm phu lao động nặng nhọc ở Chợ Gạo. Phu khuân vác người Việt Nam thì thường đến từ ngoại ô, đa số trọ ngủ ngoài bãi Phúc Xá; họ có cai thầu đứng ra nhận việc cho cả nhóm. Trong số các cai thầu, nhiều người sau này cũng trở thành nhà buôn gạo.

Về mặt xây dựng, trừ mấy nhà cũ một tầng kiểu cổ ở đầu phố xây giống như ở phố Ô Quan Chưởng bên cạnh, còn suốt phố Đào Duy Từ đều là nhà hai hoặc ba, bốn tầng; có những nhà to gồm nhiều gian. Các kho hầu hết xây một tầng nhưng diện tích rộng, mái cao, bên trong có nhiều lớp. Tại số 50 phố Đào Duy Từ, cạnh các tiệm hút thuốc phiện, nhà chứa gái và ổ cờ bạc từng có một rạp hát tên gọi Sán Nhiên Đài.

Sán Nhiên Đài là nơi ông trùm Nghị (tức Nguyễn Đình Nghị, 1883 – 1954) từng thực hiện nhiều cải tổ lớn, góp phần đưa chèo từ cửa đình ra mặt phố, từ sân đình lên sân khấu. Các tên tuổi như Nguyễn Kim Phụng, Ba Tuyên, Thanh Nhã… với những vở chèo cải lương ra mắt từ nửa đầu những năm 1930 đã kịp thời cứu vãn một trong các bộ môn nghệ thuật dân tộc đang dần dần bị giới trẻ lãng quên.

Cuối thế kỷ 20 dân phố Đào Duy Từ mới có thêm nghề kinh doanh du lịch, đá cảnh và đồ phong thủy. Nhiều thanh niên Hà Nội và khách thập phương thích đến các quán giải trí và ăn uống bình dân thường mở cửa tới khuya ở dọc con phố này và lân cận.

Rạp chèo Sán Nhiên Đài ở số 50 phố Đào Duy Từ, sau đổi thành rạp tuồng Quảng Lạc, rồi Hiệp Thành… Hồi thập niên 1960, nhà này trở thành nơi ăn chốn ở cho nhiều gia đình nghệ sĩ. Họ dựng nhà bằng tre liếp trên nền rạp, một số tận dụng tầng hai để ở và ngăn cách phòng nọ với phòng kia bằng giấy dầu. Hơn 20 năm sau, không may rạp bị thiêu trụi, họ phải sống tạm bợ 3 thập kỷ nữa cho đến khi di dời hết. Với sự cố vấn của chuyên gia đến từ thành phố Toulouse (Pháp), Trung tâm Giao lưu văn hóa phố cổ Hà Nội đã được xây dựng trên nền rạp cũ và khánh thành vào ngày 2-2-2015.

Hà Nội hiện tại chỉ còn một cửa ô duy nhất là ô Quan Chưởng, tên chữ Đông Hà Môn. Cửa này nằm ở phía đông của toà thành đất bao quanh kinh thành Thăng Long, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba (1817) được xây lại. Tại đây năm 1872, tốp lính canh dưới sự chỉ huy của một viên quan nhỏ vô danh đã anh dũng kháng cự quân Pháp cho đến người cuối cùng, dân ghi nhớ bằng tên gọi ô Quan Chưởng. Sau này ông trưởng thôn cùng dân sở tại nhất quyết không chịu cho phá Đông Hà Môn và người Pháp đã phải đồng ý giữ nguyên.

Ngoài ra, trong con ngõ nhỏ Đào Duy Từ thông sang phố Tạ Hiện hiện có một di tích bé tý xíu là miếu Sầm Công. Miếu này do những người Hoa xưa kia di cư sang sống khá đông đúc quanh đây xây dựng lên để thờ thái thú Sầm Nghi Đống. Vị tướng này chỉ huy một đại đồn quân Thanh đóng ở cạnh làng Khương Thượng và đã phải thắt cổ tự tử trên gò Đống Đa sau khi bị cánh quân Tây Sơn thần tốc của Đô đốc Long đánh cho thua trận vào ngày mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789.

 [embeddoc url=”/wp-content/uploads/2018/01/Pho-Dao-Duy-Tu.docx” width=”0px” height=”0px” download=”all” viewer=”microsoft” text=”Tải xuống: pho dao duy tu.docx”]

Hits: 3268

Leave a Reply

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *