CHÙA BẢO THÁP

Chùa Bảo tháp (Bảo tháp tự) thuộc thôn Thượng Phúc, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì còn được dân gian gọi là chùa Bồ Tát. Chùa được khởi dựng từ cuối đời Lý do vị hoàng thân nhà Lý là Hoàng thúc Lý Thầm (con vua Lý Cao Tông, chú của Lý Chiêu Hoàng) đến lập am và tu, chân thân của Ngài đã hóa thành địa mạch liên hoa.

Theo “Lư sử điển yếu điều lệ” do Ngô Thì Nhậm soạn năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794) thì làng Tó được hình thành từ lâu, đến giữa thế kỷ 15 có một bộ phận tù binh người Chiêm Thành bị đày ra đây khai khẩn vùng đất trũng, mở mang làng xóm. Năm 1939, chính quyền thuộc địa Pháp đã cho nắn đoạn sông Nhuệ chảy từ địa phận làng Siêu Quần xuống làng Đan Nhiễm nhằm để nước thoát nhanh vào mùa mưa lũ. Đồng ruộng Thượng Phúc và 16 làng trong vùng này ít bị nạn úng lụt đe dọa hơn. Ngoài làm ruộng, dân làng còn khai thác nguồn thủy sản dồi dào trong đồng và nhiều người lại có nghề buôn bán.

Tương truyền ban đầu chùa là một am nhỏ được xây dựng vào cuối thời Lý cho hoàng thân Lý Thầm về tu hành ở làng Thượng Phúc. Điều này còn được minh chứng qua một số câu đối ở cột đồng trụ của Tam bảo.

Hộ quốc, xuất gia, bát đại thiên hoàng quang Lý diệp

Chân thân hóa Phật, thiên thu địa mạch dũng liên hoa.

Dịch nghĩa

Giúp nước, tu hành dòng dõi tám đời nhà Lý

Chân thân thành Phật, ngàn năm địa mạch đài sen

Thời nhà Trần, năm 1328 có vị cao tăng Hồ Bà Lam là hoàng thân nhà Hồ về tu tại chùa. Ngoài việc tụng kinh niệm Phật sư còn đi thu nhận trẻ mồ côi, cô nhi, quả phụ về nuôi dưỡng. Nhân dân đương thời ca ngợi Ngài là Bồ Tát sống, có câu ca rằng:

Cô nhi quả phụ các nơi

Đến chùa đều được Tổ nuôi hàng ngày

Không cơm mặn thì cơm chay

Nhiều khi Tổ phải đi “vay” nuôi người

Người thứ ba đến tu tại chùa là bà Minh Từ Hoàng Thái hậu Hồ Thuận Nương, cô ruột của Hồ Quý Ly. Bà người huyện Diễn Châu, Nghệ An, lấy vua Trần Minh Tông, sinh ra hai con đều làm vua (Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông). Bà về đây để tránh nạn quân Chế Bồng Nga tiến đánh và tàn phá Thăng Long. Hòa thượng Bồ Tát đã giao chùa cho Bà, rồi Ngài lập một dàn thiêu, trèo lên đó tụng kinh và sai các đệ tử châm lửa. Lửa cháy rừng rực bốn bề mà hòa thượng vẫn điềm nhiên đọc kinh Đại Tạng rồi toàn thân Ngài hóa thành than. Hôm đó là ngày 14 tháng Tư, nên hàng năm, dân làng và quanh vùng lấy ngày này làm ngày giỗ Tổ chùa. Cho đến ngày nay, dân làng Thượng Phúc và trong vùng vẫn tế hòa thượng bằng bài thơ Nôm thể lục bát.

Tổ ngồi niệm Phật ung dung

Mặc cho lửa cháy tứ tung bốn bề

Dân làng thương khóc thảm thê

Tổ bảo: “Đi về, đừng có khóc thương

Ta lên Cực Lạc Tây Phương

Tháng Tư – Mười Bốn ta thường về đây…”

Sau khi Bồ Tát hỏa thiêu, bà Hoàng Thái hậu trở thành Ni sư trụ trì chùa. Trong hơn ba năm, bà tu sửa chùa, lại xây thêm chùa Phúc Khê. Dân làng Thượng Phúc kính phục Bà, xin được lập sinh từ ở mé trước chùa để thờ phụng sau này. Ba năm sau, có lệnh Bà phải về Kinh đô. Trước lúc về Kinh, Bà Thái hậu mở yến tiệc đãi dân làng vào ngày 16 tháng Hai. Tiệc đang vui thì Thái hậu trúng gió và qua đời.Vua Trần nghe tin, lệnh cho làng Thượng Phúc thờ Thái hậu làm Phúc thần cùng với Bồ Tát, tại cả chùa và đình (được lập về sau).

Lục dương sơ bát thời, Thần giáng phi duy Tây hữu

Tứ nguyệt thập ngũ nhật, Phật thành khởi thị Nam vô

Dịch nghĩa:

(Tháng sáu, ngày tám thần giáng, chẳng phải Tây Trúc mới có

Tháng tư, ngày rằm thành Phật, khởi tự nước Nam)

Ngôi chùa Bảo Tháp tọa lạc trong khuôn viên um tùm cây xanh trên một mảnh đất rộng rãi và cao ráo, mặt quay về hướng Tây nhìn ra sông Nhuệ. Du khách bước qua cổng phụ mới xây sẽ thấy trong sân lớn có một bức tường dài với tam quan kiểu ngũ môn, ở giữa là nếp nhà ba gian khá đơn giản, hai bên có cửa ngách. Sau tam quan là con ngõ lát gạch dẫn khách đi thẳng qua vườn tháp mộ đến tiền đường. Tiền đường rộng 7 gian, cửa bức bàn chen lẫn với ba cửa xây vòm. Bộ vì mái làm theo kiểu “chồng giường kẻ chuyền” với 4 hàng chân cột. Các mảng chạm khắc hoa lá và hoa văn nằm trên các xà nách và kẻ nách. Tại chỗ nối giữa thượng điện trên hai lá gió có chạm khắc một hoạt cảnh hình như mô tả Đường Tăng cùng 3 đồ đệ đi Tây Thiên lấy kinh.

Thượng điện gồm 5 gian với bộ vì kèo bào trơn đóng bén. Sau thượng điện là một sân hậu rộng với hai dãy hành lang, giữa sân có một phương đình với bộ vì làm theo kiểu “chồng giường giá chiêng”. Các kết cấu gỗ trong phương đình đều được chạm nổi tỉ mỉ và chau chuốt bằng hình hoa lá, rồng lá, rồng mây, chim phượng… Trên bộ vì mái của hậu cung có chạm hổ phù, trên cổn nách chạm trùng mai hóa long… Ngoài những công trình trên trong chùa còn có tòa nhà Tổ, trai phòng, nhà Mẫu.

Trong chùa còn giữ được nguyên bản 32 đạo sắc (chủ yếu của miếu Minh từ), cuốn ngọc phả, tấm bia đá năm Quang Thái thứ 3 thời Trần Thuận Tông (1390), bia gỗ “Mộc Bản” khắc bài ký về việc sửa chữa chùa năm Bảo Thái thứ 7 (1726). Ngoài ra còn có quả chuông đồng đúc thời Gia Long (1813) cao 1,15m và khánh đồng đúc thời Thiệu Trị (1843) với kích thước 1,1m,x 1,36m. Hệ thống tượng Phật giáo có 75 pho tượng tròn mang niên đại thế kỷ 19 và tạo tác đẹp, gồm các bộ Tam thế Phật, Quan Âm Nam hải, Di đà Tam tôn, Thập điện Diêm vương, Đức thánh Tổ…

Năm 1990, chùa Bảo Tháp đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

[embeddoc url=”/wp-content/uploads/2017/11/Chùa-Bảo-Tháp.docx” width=”0px” height=”0px” download=”all” viewer=”microsoft” text=”Tải xuống: chua bao thap.docx”]

Hits: 1714

Leave a Reply

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *