ĐÌNH THẠCH CẦU

Thăng Long – Hà Nội được hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm đã trở thành một trong những nơi tập trung nhiều di tích lịch sử văn hóa nhất trong ca nước. Hệ thống di tích của Thủ đô đa dạng về chủng loại, sâu sắc về nội dung, tiêu biểu về giá trị kiến trúc nghệ thuật, trong đó phải kể đình Thạch Cầu, phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội.

Trước năm 2003, đình Thạch Cầu nằm trên địa bàn thôn Thạch Cầu, xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm. Thạch Bàn có các thôn cổ: Cầu Bây, Cự Đồng, Ngọc Trì, thôn Ngô và Thương Hội. Nguyên là đất của các xã Cự Linh, Cự Đồng, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Sau này gộp thành một xã lấy tên là xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Đến năm 1961 thuộc về Hà Nội. Năm 2003 thành lập quận Long Biên và Thạch Bàn được mang tên là phường Thạch Bàn. Hiện nay, đình Thạch Cầu thuộc tổ 1, phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội.

Tấm bia đá dựng trong quán thôn Thạch Cầu tạo năm Vĩnh Hựu thứ 4 (1738) do Quận công Phạm Khiêm ích soạn, ghi rõ. “Xưa kia sông Nghĩa Trụ chảy qua làng Cầu Bây, năm đó có một bà Thái phi họ Trịnh bỏ tiền ra xây cây cầu đá bắc qua sông Nghĩa Trụ, cầu gồm 17 chân cột nhân dân đi lại được thuận tiện. Để ghi nhớ công ơn của bà, dân làng lập bia ghi công đức và đổi tên làng Cầu Bây thành làng Thạch Cầu”.

Theo truyền thuyết ở địa phương thì đình Thạch Cầu thờ Lã Lang Đường – một vị tướng tài ba đã giúp Ngô Quyền đánh dẹp giặc ngoại xâm. Ngô Quyền mất, ông lại phò nhà Đinh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Sau khi ông mất, nhân dân thôn Thạch Cầu vô cùng thương tiếc và lập đình thờ ông làm Thành hoàng làng.

Tuy nhiên, trong sách Nhà Đinh dẹp loạn và dựng  nước của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 1990, Nguyễn Danh Việt dẫn truyện Độc Thị hay Nhị Đại vương, do quan Hàn lâm viện Đông các Đại học sỹ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572) thì không thấy tên Lã Lang Đường, mà lại có tích chuyện như sau: “…Lại nói Độc Thị hay Nhị Đại vương vốn người Quảng Năng Bắc quốc cha họ Đỗ tên Thạc, mẹ Trần Thị Thọ, gia đình làm việc tốt đến ngày 12 tháng 5 năm Mậu Tý sinh một cậu con trai đặt tên là Cảnh Thạc. Năm 26 tuổi, ông cùng bọn Nguyễn Thư Tiệp, Phạm Bạch Họ, Lý Khuê, Nguyễn Khoan, Kiều Công Hãn, Ngô Xương Xí,... Là Tá Đường, tất cả 12 người đều tự xưng là 12 sứ quân cát cứ mỗi người một phương. Cảnh Thạc cũng tự xưng là một sứ quân, đi tới phía nam phò giúp Ngô Vương Quyền đến khi Ngô Vương qua đời, họ mỗi người một nẻo”.

Như vậy, trong Thần tích Độc Thị hay Nhị Đại vương có nhắc đến Lã Tá Đường là một trong 12 sứ quân thời Đinh. Như vậy, có thể Lã Lang Đường là Lã Tá Đường được nhắc đến trong câu chuyện này. Việc thờ các sứ quân thời Đinh khá phổ biến vì khi xây dựng địa bàn cát cứ, các sứ quân rất chú ý chăm lo cho dân trong khu vực mình cai quản, từ việc mở mang làng xóm đến phát triển nông nghiệp. Do đó, việc làng Thạch Cầu thờ Lã Lang Đường (hay Lã Tá Đường) là điều dễ hiểu.

Đình Thạch Cầu tọa lạc trên một khu đất rộng cao ráo và thoáng đãng, ngay đầu làng, phía trước đình là một ao sen nhỏ, nay có dựng một cây cầu cong cong dẫn ra đài lục giác ở giữa ao. Hai bên cổng đình là cây đa và cây đề cổ thụ tạo nên vẻ đẹp thâm nghiêm cho cảnh quan di tích.

Do tác động của thiên nhiên và những thăng trầm của lịch sử, nhiều hạng mục kiến trúc cổ của đình đã bị mai một, nhưng đình vẫn bảo lưu được những công trình kiến trúc như: cổng đình, sân đình, Tả, Hữu vu, Đại đình và Hậu cung.

Nghi môn với 2 trụ biểu, trên đắp dạng kết hình trái giành, dưới bổ ô lồng đèn, thân trụ đắp câu đối. Sân đình khá rộng, lát gạch Bát Tràng. Tả, Hữu vụ được xây dựng theo kiểu tường hồi bít đốc, kiến trúc chủ yếu là bào trơn đóng bén và soi kẻ, mái lợp ngói ta. Hiên của Hữu vụ dựng 1 bia đá nhỏ đã bị mờ chữ. Nối dưới Hữu vu là một nhà khách 5 gian, lợp ngói ta.

Toà Đại đình gồm 3 gian, xây theo kiểu tường hồi bít đốc tay ngai, mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp dạng bờ đinh, chính giữa đắp lưỡng Long chầu nguyệt. Xung quanh đình có hệ thống tường bao tạo thành một không gian khép kín. Chính giữa Đại đình treo bức hoành phi ghi 4 chữ: “Thánh cung vạn tuế” (Đức Thánh muôn năm).

Hậu cung đình là một ngôi nhà 3 gian chạy dọc, được nối với gian giữa toà Đại đình. Hậu cung đình cũng xây theo kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, xung quanh xây tường bịt kín, nền lát gạch, cửa gỗ làm đơn giản.

Ngoài những di vật cổ đặc trưng, đình còn có một bộ sưu tập phong phú về chất liệu và đa dạng về chủng loại như: cờ thần, bát bửu, 1 bia đá nhỏ (40 x 60cm đã bị thời gian làm phai mờ chữ (không đọc được), 2 bức đại tự sơn son thếp vàng ghi dòng chữ: “Thánh cung vạn tuế” và “Thượng đẳng anh linh”. Đặc biệt đôi câu đối ở toà Đại đình ghi lại công ơn của vị tướng Lã Lang Đường giúp nhà Đinh dẹp loạn:

Dực bảo trung hưng thiên cổ tự,

Hoà đao mộc lạc trấn nam phương.

Tạm dịch:

Ghi nhớ công ơn người tướng xưa,

Dùng đao gỗ trấn giặc phương nam.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đình Thạch Cầu là căn cứ của du kích, với nhiều công trạng chặn đánh địch ở đường 5, cắt đứt giao thông giữa sân bay Gia Lâm xuống Hải Phòng. Tại đây, trong trận càn năm 1947 giặc Pháp đã bị du kích địa phương đánh trả quyết liệt. Vì vậy, đình Thạch Cầu còn là một địa điểm ghi dấu những sự kiện cách mạng kháng chiến diễn ra ở địa phương. Tồn tại qua các thời kỳ lịch sử, ngôi đình luôn là một di tích tôn giáo tín ngưỡng của làng Thạch Cầu và đến hôm nay ngôi đình vẫn là một trung tâm sinh hoạt văn hóa truyền thống, hội họp của nhân dân địa phương. Với những giá trị nêu trên, đình Thạch Cầu xứng đáng được trân trọng, giữ gìn để góp phần giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cho mọi người, đặc biệt là cho thế hệ trẻ.

[embeddoc url=”/wp-content/uploads/2017/11/Dinh-Thach-Cau.docx” width=”0px” height=”0px” download=”all” viewer=”microsoft” text=”Tải xuống: dinh thach cau.docx”]

Hits: 1351

Leave a Reply

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *