ĐỀN BÀ KIỆU

Đền Bà Kiệu có từ đầu thế kỷ 17, tên chữ Huyền Chân Từ và Thiên Tiên Điện, trong thờ Mẫu Liễu, ở số 59 phố Đinh Tiên Hoàng, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Đền Bà Kiệu trước kia gọi là “Huyền Chân Từ”, trong đền còn có bức hoành phi viết bằng chữ Hán đề tên “Thiên Tiên Điện”. Theo bia “Trùng tu Huyền Chân Từ bi ký” dựng vào năm Tự Đức 19 (1866) thì đền Huyền Chân nguyên thuộc đất huyện Thọ Xương và được xây dựng từ đời Lê Trung hưng.

Sách “Thăng Long cổ tích khảo” và “Hà Thành linh tích cổ lục” ghi rằng đền Huyền Chân ra đời vào niên hiệu Vĩnh Tộ (1619—1628). Cuối niên hiệu Cảnh Hưng (1740—1786) có ông Lê Trọng Sinh góp xây thêm cổng tam quan. Năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) thời Tây Sơn, vị quan Trần Hữu Ứng và vợ là Trần Thị Bảng cung tiến tiền để đúc một quả chuông đồng.

Các đạo sắc phong từ triều Lê qua Tây Sơn đến triều Nguyễn cho biết đền Bà Kiệu thờ ba vị nữ thần, bao gồm: Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị Ngọc nữ Quỳnh Hoa và Đệ tam Ngọc nữ Quế Hoa. Liễu Hạnh còn được dân gian gọi tôn kính là Bà chúa Liễu, Bà chúa Sòng, hoặc Mẫu Nghi thiên hạ, Mẫu Phủ Giày.

Thần phả chép rằng Liễu Hạnh là con gái Ngọc Hoàng, vì đánh vỡ chén ngọc nên bị giáng xuống trần, mang tên Giáng Tiên, lấy chồng là Đào Lang. Hết hạn đi đầy, công chúa trở về với Ngọc Hoàng nhưng thỉnh thoảng vẫn quay lại trần gian, mang theo hai tiên nữ Quỳnh Hoa và Quế Hoa, trú ngụ ở Phố Cát (Thanh Hoá), giúp đỡ dân lành.

Với những công tích của mình công chúa Liễu Hạnh đã trở thành một trong “tứ bất tử” trong tâm thức tín ngưỡng của dân gian. Bà được phong vào hàng “Đệ nhất Thượng đẳng thần”. Đền Bà Kiệu là một di tích đạo Mẫu quý giá của Thủ đô và cả nước ta.

Thời Nguyễn, đền Bà Kiệu có lần trùng tu nhỏ vào năm Tự Đức 6 (1853). Dấu tích kiến trúc còn lại bây giờ chủ yếu là từ đợt sửa chữa lớn ở thập kỷ sau đó (1864) với những nguyên liệu nổi tiếng của Thanh Hóa như gỗ rừng Nưa, đá núi Nhuệ. Khu đền chính có kết cấu hình chữ “Công”, gồm nhà đại bái, phương đình và hậu cung. Tam quan ba gian xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta.

Năm 1891, do thực dân Pháp xây đường vòng quanh Hồ Gươm nên khu đền chính bị dỡ mất tòa tiền tế và sân trước trở thành một đoạn phố. Đền Bà Kiệu hiện nay là một di tích gồm hai phần cách nhau bởi phố Đinh Tiên Hoàng, với khu đền chính nằm dọc góc phố Lò Sũ và cổng tam quan ở phía ven hồ.

Nhà đại bái cũng xây ba gian, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, nhưng cao to hơn tam quan nhiều. Bộ mái gần gũi với phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Bờ nóc có dạng bờ đình, bên trên gắn hình cá hoá rồng bằng gốm hoặc men xanh đang nhìn vào bình nước thiêng ở giữa. Bộ khung được làm khá vững chắc với 8 cột trụ bằng gỗ lim, chu vi cột cái 115cm, cột quân 105cm. Các cột hiên nhỏ hơn được làm bằng đá trắng, hình hộp chữ nhật mỗi cạnh rộng 25cm.

Trong nhà đại bái còn có bốn tượng cá chép hoá rồng đặt trên xà và dưới diềm của hai mái sau, trước. Tất cả được che mát dưới tán lá của một cây đa rất lớn.

Liền sau nhà đại bái là một kiến trúc nhỏ dựng trên bốn chân cột kiểu phương đình 2 tầng 4 mái chạm mảng các hoa văn truyền thống theo kiến trúc thời Nguyễn. Hậu cung gồm một nếp nhà ngang xây gạch kiểu tường hồi bít đốc. Dãy nhà bên phía phố Lò Sũ biến thành các cửa hàng. Từ mặt sau đền có thể đi qua quán giải khát để vào hậu cung. Năm 2015 dự kiến sẽ trùng tu đền.

Trong đền Bà Kiệu hiện nay còn giữ được bộ sưu tập văn hoá lịch sử gồm nhiều chủng loại và chất liệu khác nhau trải dài qua ba triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Hai gian bên của hậu cung là nơi thờ những vị nam thần phổ biến trong các đền Mẫu như Ngọc Hoàng và Ngũ vị Tôn ông. Các pho tượng này có kích thước nhỏ, được tạo tác vào thời Nguyễn.

Tượng các nữ thần đặt trong một khám thờ lớn ở giữa hậu cung, chạm khắc cầu kỳ. Lớp trên gồm 3 pho trong toà Thánh Mẫu (Mẫu Thiên, Mẫu Thuỷ, Mẫu Địa). Lớp dưới có tượng công chúa Liễu Hạnh và hai tiên nữ Quỳnh Hoa, Quế Hoa. Bên ngoài khám thờ này còn có bốn tượng nhỏ (2 tượng cô, 2 tượng cậu). Lại có hai khám thờ nhỏ hơn, bên phải đặt tượng chầu Thủ đền, bên trái là tượng Bà Chúa Thượng Ngàn.

Các khám, long ngai, hương án, án văn, câu đối, hoành phi… đều có chạm trổ tỉ mỉ với những hình rồng, hoa dây, chim phượng… mang phong cách thế kỷ 19. Những đồ thờ này được sơn son thếp vàng lộng lẫy.

Ngoài các bia Cảnh Thịnh 8 (1800), Tự Đức 19 (1866)… còn có 27 đạo sắc từ triều Lê, Tây Sơn đến Nguyễn phong thần cho Bà Chúa Liễu và hai vị tiên nữ. Thời Lê có 3 sắc năm Cảnh Hưng 44 (1783), 3 sắc năm Chiêu Thống Nguyên niên (1787). Thời Tây Sơn có 3 sắc năm Quang Trung 5 (1792), 3 sắc năm Cảnh Thịnh nguyên niên (1793). Triều Nguyễn có các sắc đời Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khấnh và Duy Tân.

Trên cột đá ở cửa điện có đôi câu đối về nguồn gốc tiên thánh của Bà Chúa Liễu:

Khảm nhất chung anh thiên tượng mẫu

Khôn trùng phối hậu đại trung tiên.

Tạm dịch:

Trời kia xa thẳm, tụ khí anh linh người mẹ

Ngọc Hoàng đầy xuống, trần gian mà lại thành tiên.

Đền Bà Kiệu là một trong những nơi thờ Mẫu được dựng sớm nhất ở nước ta. Đền gắn bó mật thiết với đời sống văn hoá tinh thần của Thăng Long và có vị trí đắc địa ngay cạnh các thắng cảnh Hồ Gươm và đền Ngọc Sơn. Ngôi đền đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá quốc gia vào ngày 2-5-1994.

[embeddoc url=”/wp-content/uploads/2017/10/Đền-Bà-Kiệu.docx” width=”0px” height=”0px” download=”all” viewer=”microsoft” text=”Tải xuống: den ba kieu.docx”]

Hits: 5850

Leave a Reply

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *