ĐÌNH NAM DƯ HẠ

Nam Dư Hạ là một mảnh đất giàu truyền thống lịch sử văn hoá, nay thuộc phường Trần Phú, quận Hoàng Mai. Đình Nam Dư Hạ ngoài nét độc đáo về lịch sử, kiến trúc gắn với thần tích của 3 vị thành hoàng làng, nơi đây cón được biết đến với lễ hội truyền thống, lễ rước nước (lễ cấp thủy), một nghi lễ truyền thống gắn với cộng đồng dân cư vùng ven sông Hồng.

Đình Nam Dư Hạ phụng thờ Tam vị Thành hoàng là Tam Đầu Cửu Vĩ Long Vương, Thái uý Chương Võ Thái sư (Nguyễn Xí) và Lê Gia Hoàng Thái Hậu. Theo thần tích còn lưu lại, có vị sư tổ Từ Phong thường du ngoạn ở ven kinh thành Thăng Long, có lần đi qua đất Nam Dư thấy cảnh sắc đậm đà, bến thuyền xuôi ngược quyến rũ lòng người, ngài bỗng thấy có một con rồng từ đất bay lên nhào lượn trên không trung rồi biến vào vòm trời xanh. Đức tổ cho đây là chốn tiềm long (nơi rồng ẩn) nên quyết định xây phủ đệ ở lại Nam Dư, đồng thời, ngôi chùa lấy tên là Thiên Phúc, mở một con đường rất thẳng từ cung điện nhà vua tới chùa và xây ngôi đình làng cho dân thờ Long Vương thần. Vị Long Thần linh thiêng hiển hách có công cứu giúp Lê Lợi thoát khỏi mũi giáo của giặc trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh. Khi Lê Lợi lên ngôi vua, nhớ ơn Long thần cứu mình, nhà vua đã phong sắc cho Long Vương là thượng đẳng thần và cho dân Nam Dư phụng sự hương khói đời đời.

Còn về vị thành hoàng làng thứ 2 là Thần Chương Võ Thái Sư, Thần là Nguyễn Xí người xã Thượng Xá, huyện Chân Phúc, tỉnh Thanh Hoá (nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An). Năm lên 9 tuổi cha mất, ông theo người anh đến làm người nhà Lê Lợi. Càng lớn, Nguyễn Xí tỏ ra là người vũ dũng hơn người, được Lê Lợi yêu quí như con. Sau được Lê Lợi giao quản đội Thiết đội thứ nhất. Từ đó, ông xông pha chiến trận, ở đâu cũng lập chiến công rồi được thăng lên Thái uý. Có lần, ông được Lê Lợi sai đi diệt giặc Minh ở thành Đông Quan, ông cho quân tiến từ Gia Lâm sang Nam Dư, ngủ đêm tại miếu thần. Thái úy được Long Vương báo mộng hôm sau xuất quân thắng trận. Khi Lê Lợi đánh đuổi hoàn toàn quân giặc lên ngôi vua, Nguyễn Xí làm sớ tâu nhà vua phong sắc cho thần miếu Nam Dư Hạ là Thượng đẳng thần. Dân chúng nhớ ơn ông xin triều đình ban sắc nên tôn làm thành hoàng làng Nam Dư Hạ.

Vị thành hoàng làng thứ 3 được thờ phụng tại đình Nam Dư Hạ là Thần Lê Gia Hoàng Thái Hậu. Tương truyền, bà là Hoàng thái hậu họ Trịnh tên huý là Loan, người xã Phi Bạo, huyện Thanh Chương, Nghệ An, mẹ vua Chiêu Tông. Dưới triều Lê Chiêu Tông, quyền uy của nhà Mạc rất lớn, âm mưu thoán đoạt ngôi vua ngày càng lộ rõ. Trước tình hình đó, Lê Chiêu Tông lập mưu triệt hạ thế lực của họ Mạc. Mưu bị bại lộ, nhà vua phải bỏ chạy khỏi kinh thành. Hoàng thái hậu lui về vùng Nam Dư lánh nạn. Bà đã dạy dân làng Nam Dư nghề trồng mía nấu mật, trồng dâu nuôi tằm. Khi Mạc Đăng Dung chính thức lên ngôi thì vua Lê Chiêu Tông và bà bị ép phải chết. Nhân dân Nam Dư nhớ ơn thái hậu khi xưa nên đã lập miếu thờ bà. Đến khi Lê Trang Tông đánh đuổi nhà Mạc, dấy nghiệp Trung Hưng đã sắc phong cho bà làm Thượng đẳng thần.

Từ khi khởi dựng đến nay, đình Nam Dư Hạ trải qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo. Vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp, một số hạng mục của đình như phương đình, tiền tế, trung cung đã bị phá dỡ hoặc đốt cháy. Từ năm 2001 – 2005 được sự quan tâm ủng hộ của chính quyền, nhân dân địa phương và khách thập phương, đình Nam Dư Hạ đã được tu bổ khang trang theo phong cách kiến trúc truyền thống. Hiện tại, mặt bằng kiến trúc tổng thể đình Nam Dư Hạ gồm các hạng mục: nghi môn ngoại, cửa mã, phương đình, đại bái, trung cung, hậu cung và tả hữu vu.

Phía trước đình là Nghi môn và bể non bộ, qua con đường làng là tới khuôn viên của đình. Trước đây, trước cửa đình là ao đình rất rộng, kéo dài tới tận chân đê sông Hồng, sau Nhà nước lấy đất làm đường vành đai 3, gần chân cầu Thanh Trì nên các cụ trong làng xây dựng một bể cạn và non bộ ở sân đình. Cổng đình Nam Dư Hạ là hạng mục kiến trúc thế kỷ XIX, kết cấu theo kiểu thức “cửa mã”. Hai đầu hồi cổng là cột trụ biểu, đỉnh trụ là nghê chầu, tiếp đến là ô lồng đèn, thân trụ đắp chữ Hán, đế trụ thắt cổ bồng. Cổng có mái che, kết cấu tường hồi, bít đốc lợp ngói ri. Trên bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt. Vào bên trong cổng tương ứng với 3 gian là các bộ vì phía tiền và hậu kết cấu dạng vì nách theo kiểu thức chồng rường quá giang gối cột. Trên các bộ vì chạm khắc linh vật như dơi, phượng, hoa văn chữ thọ, đầu các thanh xà chạm rồng theo phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX.

Qua cổng đình là đến toà Phương đình kết cấu chồng diêm hai tầng tám mái đao cong, tiếp đến là Đại bái, Trung cung và Hậu cung. Toà Đại bái qua Trung cung có 5 lối vào kiểu cuốn vòm dẫn vào toà Hậu cung. Tại Hậu cung còn lưu giữ được những nét chạm khắc hoa văn hoa lá nghệ thuật thế kỷ XIX trên xà bộ vì hiên.

Mỗi hạng mục kiến trúc này đều được bài trí nhiều đồ thờ theo nguyên tắc truyền thống như hoành phi,câu đối, nhang án, bát bửu, ba bộ long ngai bài vị, khám thờ… Một trong những di vật quí giá được lưu giữ tại đình Nam Dư Hạ phải kể đến ba bộ kiệu bát cống mang đậm nét chạm khắc thời Lê. Trải qua những năm tháng thăng trầm của lịch sử, ba bộ kiệu vẫn còn được giữ nguyên vẹn hình dáng ban đầu. Kiệu được sơn son thếp vàng lộng lẫy, từng đường nét được chạm khắc chau chuốt chứa đựng tâm hồn, tài năng của người nghệ nhân. Đây là niềm tự hào của người dân Nam Dư Hạ đặc biệt trong những dịp lễ hội của làng. Dân làng Nam Dư Hạ coi ba bộ kiệu như là báu vật của cha ông truyền lại cho đời sau.

Về di văn Hán Nôm được lưu giữ tại đình Nam Dư Hạ, quí giá nhất là 11 đạo sắc phong, đạo sớm nhất có niên hiệu từ đời Cảnh Hưng 44 (1783) và một cuốn Ngọc phả là nguồn tư liệu quý giá góp phần khẳng định giá trị văn hoá, lịch sử của đình.

Lễ hội truyền thống làng Nam Dư Hạ diễn ra từ ngày 14/2 đến 16/2 âm lịch nhưng nét đặc sắc nhất của lễ hội này lễ rước nước (lễ cấp thuỷ). Lễ hội rước nước trước đây được tổ chức từ ngày 14 đến ngày 15 tháng Hai âm lịch, nhưng đến nay được sự thống nhất của ba làng Nam Dư Thượng, Nam Dư Hạ và Thúy Lĩnh diễn ra trong ngày 14 tháng Hai.

Để chuẩn bị cho lễ hội rước nước, cách ngày diễn ra lễ hội khoảng hai, ba ngày, ban tổ chức lễ hội cùng toàn thể nhân dân Nam Dư Hạ đã chuẩn bị mọi thứ đầy đủ cho lễ rước nước với một tấm lòng thành kính đặc biệt.

Làng Nam Dư Hạ ở trong đê nên mỗi khi rước kiệu ra sông lấy nước đều phải đi qua đình làng Thúy Lĩnh, khi đoàn rước qua cửa đình thì dừng lại, quay long đình vào đình Thúy Lĩnh lễ vọng. Cùng lúc đó, dân làng Thúy Lĩnh ăn mặc chỉnh tề làm lễ phụng nghênh. Khi đoàn rước nước ra đến bến sông Hồng, dưới bến đã có nhiều chiếc thuyền đợi sẵn để chở kiệu nước và các lễ vật đi xuống sông thực hiện nghi thức cấp thuỷ. Đoàn rước lên thuyền tiến ra sông lên đến đình làng Bát Tràng (huyện Gia Lâm) thì chào và lễ vọng. Sau đó, đoàn thuyền quay ra giữa dòng sông. Một cụ già cao niên đã được lựa chọn cân nhắc theo tiêu chuẩn về tuổi tác, đạo đức gia đình cũng như sức khoẻ được đại diện dùng gáo đồng múc từng gáo nước đổ vào choé. Chóe được đặt giữa thuyền trên miệng có phủ một vuông vải điều.

Vào buổi chiều cùng ngày, lễ nhập thuỷ được tiến hành trang trọng. Lễ tế được các cụ cao niên trong làng tổ chức với tấm lòng thành kính dâng lên các vị thành hoàng cầu mong cho dân làng một năm no ấm, an bình.

Lễ rước nước là nét độc đáo đặc trưng không chỉ của Nam Dư Hạ mà cả một vùng ven sông Hồng như Khuyến Lương, Vĩnh Hưng… của quận Hoàng Mai. Năm 1991, Bộ Văn hoá thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng cụm di tích đình – chùa Nam Dư Hạ là di tích quốc gia tại quyết định số 1728/QĐ ngày 21/0/1991.

[embeddoc url=”/wp-content/uploads/2017/10/Đình-Nam-Dư-Hạ.docx” width=”0px” height=”0px” download=”all” viewer=”microsoft” text=”Tải xuống: dinh nam du ha.docx”]

Hits: 1757

Leave a Reply

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *