CHÙA SÉT

Chùa Sét có ít nhất từ đầu thế kỷ 17, tên chữ là Đại Bi Tự và Cổ Am Tự nằm gần ngã ba Trương Định – Tân Mai, phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội.

Chùa Sét xưa kia thuộc thôn Giáp Lục, xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì. Thanh Trì (tức “đầm xanh”) vốn là một dải đất trù phú nhờ có sông Hồng và con đường thiên lý từ phía nam kinh thành Thăng Long đi qua. Xã Thịnh Liệt hay tổng Sét trước thế kỷ 15 gọi là Cổ Liệt, vốn có 9 giáp, duy nhất Giáp Lục có tên Nôm là làng Sét. Đây là một vùng quê cổ nổi tiếng từ thời Trần và đã được Nguyễn Trãi nhắc đến trong sách “Dư địa chí”.

Sông Sét thông với sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Kim Ngưu, từng là một phương tiện giao thông và thuỷ lợi quan trọng đối với dân cư xung quanh chủ yếu sống bằng nghề nông. Cuối thế kỷ 20 bến xe Kim Liên chuyển về Giáp Bát; dần dần đến nay tổng Sét đã hoàn toàn đô thị hoá. Dòng sông xanh và cả con đầm nổi tiếng qua câu ca dao

“Dưa La, cà Láng, tương Bần,

Cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây”

cũng đã trở thành dòng kênh đen và hồ nước thải của thành phố. Dư âm một thời làng quê thanh bình dường như chỉ còn ngân nga khe khẽ trong những tiếng chuông đâu đây của đền Lừ và chùa Sét…

Nhà Hán học kỳ cựu Vũ Tuấn Sán từng viết về ngôi chùa Sét dưới bút danh Tảo Trang, đăng báo “Người Hà Nội” số 125 ngày 4-11-1989. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông, thành lập từ thời Lý và đã được trùng tu nhiều lần. Sách “Hà Nội – Di tích lịch sử văn hóa và danh thắng” có nói về các đợt tôn tạo của chùa dưới thời Lê trung hưng như dựng điện Phật cùng tăng phòng vào năm 1630 và xây gác chuông năm 1631.

Sách “Địa chí vùng ven Thăng Long” cho biết vương phi Đặng Thị Ngọc Dao, vợ chúa Trịnh Tùng đã đứng ra tu sửa chùa năm 1635. Về sau, nhiều mệnh phụ gốc vùng Kẻ Mơ (Hoàng Mai) bên cạnh như các cung tần Lê Ngọc Trân, Lê Thị Ngọc Côn, Lê Thị Minh… cũng đã bỏ tiền công đức tôn tạo chùa. Đến thời Nguyễn, chùa lại được trùng tu lớn vào các năm 1809 (đời vua Gia Long) và 1927 (Bảo Đại).

Dáng dấp của ngôi chùa Đại Bi mang phong cách nghệ thuật kiến trúc cuối thời Nguyễn. Do sự hoang phế và bị lấn chiếm sau chiến tranh nên cổng cũ đã biến mất, chỉ còn trơ lại hai cột nghi môn xám xịt bị lấp bóng cây cối mọc đầy ven con lạch nước bẩn. Nhà khách và nhà Tổ nằm dọc bên trái sân trước. Tăng phòng và hậu đường nằm ngang ở bên phải và phía sau Tam bảo.

Chùa chính xây theo kiểu truyền thống hình chữ “Đinh”. Toà Tam bảo nhìn về hướng tây. Phía trước có một loạt bia đá phủ rêu phong xếp hàng trên cái sân gạch nối liền với cái ngách thông ra phố Trương Định, nhà cửa dân cư đầu ngách hầu hết còn lụp xụp. Tiền đường rộng 5 gian và thượng điện sâu 3 gian nằm trên nền cao ráo, xung quanh cây cối um tùm. Bên trái là dãy hành lang dài nối xuống nhà hậu. Bên phải có nhà thờ Tứ Ân. Phía nam chùa có khu lăng mộ một bà chúa họ Lê, tương truyền là người có công xây dựng chùa Sét và cầu Sét.

Chùa Đại Bi thờ Phật và thờ Tứ Pháp. Tượng nữ thần Pháp Vân được đặt trong một khám thờ ở hậu cung. Phía trước tượng nữ thần có bày tượng Quán Thế Âm Bồ tát. Chính điện bài trí như thông lệ của chùa Bắc tông, gồm bộ tượng Tam Thế Phật, tượng Phật A Di Đà, tượng Phật Thích Ca cao 2m được đúc bằng đồng năm 1934, tượng Thích Ca sơ sinh… Nay lại đặt thêm pho tượng “Phật nằm” ở trước chính điện.

Ngoài các tượng Phật và tượng bà Ngọc Dao, chùa cũng giữ được nhiều cổ vật khác như 4 tấm bia đá (dựng năm 1635, 1690, 1691), một quả chuông lớn và các đạo sắc phong của nhiều vị vua triều Nguyễn… Đặc biệt có tấm bia hộp dựng năm Chính Hòa thứ 11 (1690), khắc chữ cả bốn mặt, cao 1,6m, nặng khoảng 2 tấn, vuông 4 cạnh, mỗi cạnh rộng 0,6m.

Bộ Văn hóa – Thông tin đã xếp hạng chùa Đại Bi là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

[embeddoc url=”/wp-content/uploads/2017/10/Chùa-Sét.docx” width=”0px” height=”0px” download=”all” viewer=”microsoft” text=”Tải xuống: chua set.docx”]

Hits: 2010

Leave a Reply

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *