ĐỀN TRÚC LÂM

Công Đình trước đây thuộc huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, đạo Bắc Ninh, trấn Kinh Bắc và được gọi là Tùng Đình Áp, sau kiêng tên huý của vua Trịnh Tùng mới đổi tên là xã Công Đình.

Năm 1945 hai xã Công Đình và Tế Xuyên nhập làm một xã đổi tên là xã Công Tế. Tới tháng 7 năm 1955 gọi là xã Đình Xuyên. Năm 1961 nhập vào huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.

Đền Trúc Lâm (còn có tên Nôm là đền Cây Gạo) – một di tích có liên quan mật thiết với chùa Linh Quang. Theo thần tích của thành hoàng làng Tả Phù thì có một lần đức Tả Phù ngủ lại bên đền ông đó khấn rằng: Lần này đi đánh giặc phò vua giúp nước xin thần phù hộ… Nếu được như lời sẽ trả ơn. Sau khi thắng trận ông được nhà vua thưởng rất hậu, song ông không nhận mà chỉ xin vua ban cho ba ngôi nhà của giặc để cho dân dựng Đình.

Được vua đồng ý ông cho dân chở ba ngôi nhà theo dòng sông Thiên Đức về làng. Nhưng khi đến đền Trúc Lâm, hai ngôi nhà trước qua được, còn ngôi nhà thứ ba không nhúc nhích. Ông vào đền khấn thần Cây Gạo, xin trả ơn thần là đem ngôi nhà này dựng Đình cho làng Công Đình. Khấn xong lập tức ngôi nhà ấy kéo lên được và dựng lên ngôi Đình hiện nay.

Đền Trúc Lâm nằm bên bờ sông Thiên Đức, phong cảnh xung quanh đền sầm uất và đẹp. Cổ xưa đền có tên là “Trúc Lâm đài”. Theo thần phả, sắc phong và một số tư liệu khác thì: Làng Công Đình xưa có một cây gạo rất to, cao. Một lần nọ nhà vua bị giặc đuổi đến bờ sông đang bối rối tìm đường qua, bỗng nhiên trời âm u, nổi gió to, cây gạo đổ ngang sông. Nhờ đó nhà vua qua được và thoát nạn. Về sau, khi đánh thắng được giặc vua bèn phong cho Cây Gạo làm Đại vương và cho dân xã ở đây lập miếu thờ.

Đền có lịch sử xây dựng từ khá sớm, trải qua những thăng trầm của lịch sử dân tộc, căn cứ vào tấm sắc phong phong cho thần Cây Gạo đại vương có niên hiệu Cảnh Hưng thứ nhất (1740) và tấm bia sớm nhất còn lưu giữ lại có niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7 (1746) đó khẳng định đền Trúc Lâm được xây dựng từ trước đó.

Đền được xây dựng theo hướng Bắc nhìn ra hồ nước lớn. Ngoài cùng là cổng tam quan (nằm phía bên trái của đền). Tam quan được xây theo kiểu tứ trụ, gồm hai trụ lớn và hai trụ nhỏ. Hai cột đồng trụ lớn đỉnh trụ đắp hình nghê chầu vào nhau, tiếp đến là đấu nắm cơm đặt trên hệ thống mui luyện đắp bốn mặt hổ phù, bốn góc đắp hình rồng dạng văn xoắn. Nối cột trụ lớn và hai cột nhỏ về hai bên là một bức tường trổ thủng hình chữ Thọ lớn.

Khu đền chính được xây dựng trên nền cao 1m, lối lên xuống xây bậc tam cấp ở cả ba gian. Phía trước đền mở hệ thống cửa bức bàn, mái lợp ngúi ta, bờ nóc đắp một bức đại tự đề ba chữ “Trúc Lâm Đài”. Hai đầu kìm đắp đấu nắm cơm, bờ dải đắp bậc tam cấp. Nhà tiền tế gồm ba gian xây theo kiểu tường hồi bít đốc, hai bức tường hồi được nối với hai trụ cột ở hiên đền. Hai cột trụ cũng được xây dựng theo lối kiến Trúc cổ, thân trụ được tạo khung để viết câu đối bằng chữ Hán. Trên bức tường từ cột trụ vào hiên hai bên tạo hai khung hình chữ nhật bên trên đắp rồng, cá chép, tường hiên gắn những tấm bia của đền.

Tiền tế gồm bốn bộ vì kèo được làm theo kiểu “thượng chồng rường hạ kẻ”, Phía dưới đắp ván mê, các hình thức trang trí chủ yếu là vân xoắn lớn, hoa lá trên nền văn triện được chạm nổi với nét chạm phóng khoáng, mạnh mẽ và chắc chắn. Đầu kẻ hiên trang trí hoa lá hoá rồng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX-XX.

Hậu cung gồm hai gian cung cấm, một gian ở ngoài chung với tiền tế. Tiền tế và hậu cung gần như tách biệt, không liên kết với nhau, vì thế ở gian giữa còn lại bộ cốn ván mê được làm dạng hình chữ nhật. Đây là những mảng chạm chính gắn với kiến Trúc của đền, với đề tài rồng chầu, song ở tư thế vùng vẫy, nô đùa cùng vân mây sóng nước. Rồng có vây nhỏ, vẩy được thể hiện nổi rõ như vẩy cỏ chép, thân uốn gấp khúc, ẩn hiện dưới lớp vân xoắn, ngọn sóng nước nhấp nhô. Mảng chạm với nét chạm nổi, mạnh mẽ và uyển chuyển mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX. Bên cạnh phần cốn mê còn có bức cửa võng làm kiểu chân quỳ dạ cá mang đề tài tứ linh, hoa lá, sơn son thếp vàng đã tạo cho điện thờ thêm phần trang nghiêm lộng lẫy.

Trải qua thời gian dài tồn tại và phát triển, đến nay đền Trúc Lâm còn lưu giữ được một bộ di vật gồm có 7 đạo sắc phong (trong đó 5 đạo sắc niên hiệu Cảnh Hưng). Sắc sớm nhất ngày 24 tháng 7 niên hiệu Cảnh Hưng nguyên niên (1740). Sắc muộn nhất ngày mồng 1 tháng 7 niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 2 (1887). Một cỗ ngai bài vị mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII. Ngai thể hiện kiểu nhiều tầng giải khác nhau, với các nét chạm thủng, chạm nổi, chạm bong kênh các đề tài trang trí hình linh vật, văn triện hoa lá cách điệu, đây là chiếc ngai đẹp có giá trị nghệ thuật cao. Ngoài ra còn có một đôi hạc đồng, hương án gỗ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX. Một tấm bia thời Lê cao 1,2m, trán bia trên cùng là hình chóp tháp, giữa trang trí hình hoa cúc, xung quanh là những vân xoắn lớn, diềm bia trang trí hoa dây cách điệu. Trong đền còn một đôi câu đối có nội dung:

Miên mộc hoành giang, nhất trận uy phong quyền tự cổ

Tùng Đình lập miếu, Thiên thu tráng lệ ngật vu hàm

Nghĩa là:

Cây gạo chắn ngang sông, một trận gió uy quyền tự cổ

Đình Tùng dựng tôn miếu, ngàn thu tráng lệ mãi ngày nay

Đền Trúc Lâm là một công trình kiến Trúc có gía trị. Trải qua các triều đại phong kiến, di tích vẫn tồn tại và đứng vững trong một cảnh quan không gian thoáng đãng. Với một vị trí đẹp ngôi đền như một toà lâu đài, lung linh soi bóng nước. Với cảnh quan trên bến dưới thuyền trong mỗi dịp lễ hội, thấp thoáng sau những khóm Trúc tạo cho đền thêm phần thiêng liêng. Vị thần được thờ tại đền Trúc Lâm là thần Cây Gạo đại vương, một thần linh của đất nước đã được nhân cách hoá, con người không những thành kính tôn thờ, tưởng nhớ đến những người có công với dân, với nước mà còn thờ thần là Cây Gạo, một yếu tố của lực lượng tự nhiên tượng trưng cho sự no đủ. Chính vì vậy việc thờ thần Cây Gạo đại vương luôn tồn tại qua không gian và thời gian, qua mọi biến động lịch sử gắn với tâm hồn dân dã của người Việt.

Cây có cội, nước có nguồn, đền Trúc Lâm cùng với chùa Linh Quang và Đình miếu Công Đình là một cụm di tích tiêu biểu trong quần thể kiến Trúc có quan hệ mật thiết và gắn bó với nhau. Đền Trúc Lâm được Bộ Văn hóa – Thông tin ra quyết định xếp hạng di tích kiến trúc – nghệ thuật năm 1992.

[embeddoc url=”/wp-content/uploads/2017/09/Đền-Trúc-Lâm-Đình-Xuyên.docx” width=”0px” height=”0px” download=”all” viewer=”microsoft” text=”Tải xuống: den truc lam dinh xuyen.docx”]

Hits: 788

Leave a Reply

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *